BÀN VỀ TƯỚNG CHỦ
Thứ ba - 19/09/2023 09:52

BÀN VỀ TƯỚNG CHỦ 

( Tiếp theo )

Dùng cách hợp Lộc hợp Tài như Tăng công làm cho chủ dựng tuổi Nhâm Ngọ. Dương Công làm cho mệnh người chết tuổi Nhâm Ngọ, đều lấy 4 Đinh Mùi, vì Đinh cùng với Nhâm hợp, là cách hợp Tài, lại Ngọ cùng với Mùi hợp, là cách Thiên Địa hợp; Bốn điểm Đinh Lộc đến Ngọ là cách Mệnh tụ Lộc. Cho nên Khóa nói: “Can Chi hợp Mệnh là rất Kỳ” là cách Thượng Thượng.Người đời nay lấy Can Chi hợp Mệnh là Hối khí sát, sao mà lầm thế!
Dương Công làm cho tuổi Ất Tị chủ mệnh, làm nhà Cấn Sơn Khôn Hướng, lấy năm Đinh Sửu, tháng Canh Tuất, ngày Canh Thân, giờ Canh Thìn, là lấy Ất cùng với Canh hợp là cách hợp Quan; lại Canh Lộc ở hướng Thân Khôn, Dịch mã tới Dần Cấn sơn. Cho nên ghi rằng: “ Tam Hợp Mã tới Sơn. Tam Lộc tới trên Hướng, lại Tam Canh, gọi là cách Tam Thai”.
Cách Tam Ấn thụ nên Chính ấn, kỵ Kiêu ấn. Như mệnh Giáp nên tứ Quý, mệnh Ất nên tứ Nhâm, Kiêu ấn cũng có thể sinh ta, nhưng thấy Kiêu thì kỵ, độ 1, 2 điểm thì không kỵ. Nếu Thương quan,Thực thần, Tiết khí thấy nhiều thì kỵ
Cách Tỷ Kiên: Như người chết tuổi Kỷ Tị, Dương công lấy 4 Kỷ Tị, là cách Tỷ Kiên. Người đời nay kỵ ngày Bản mệnh. Cái gì cùng với Tỷ Kiên là Thượng Cát, như tuổi Kỷ thấy 3 Kỷ, 4 Kỷ đây. Kiếp Tài thì hung cho Kỷ mệnh (tuổi Kỷ), là thấy nhiều chữ Mậu đó.
Cách Tứ Trường Sinh: như người tuổi Thân, dùng 4 chữ Thân: người tuổi Dần dùng 4 chữ Dần là đúng cách.
Quan không cùng Hợp không nên thấy nhiều, 1,2 điểm là được; Hợp Quan thì 4 điểm càng tốt.
Thất Sát rất hay khắc Mệnh, kỵ dùng; hoặc năm tháng lợi hàng Can mà can hệ Thất Sát cũng được, cốt được trong Tứ trụ Thiên Can Thực Thần chế đi là tốt, nếu tới 2 điểm là Hung, huống là nhiều điểm .
Xưa có người tuổi Ất Mẹo làm nhà, dùng năm Tân Sửu tháng Tân Mẹo, sau đại bất lợi, vì Ất lấy Tân làm Thất Sát, nếu dùng chữ Canh thì hợp Quan: Đại Cát.
Hợp Quan là cách Quý, hợp Tài là cách Phúc, chẳng hợp thì vô tình. Tài Quan mà vô tình, chỉ nên 1, 2 điểm là được. Quý Nhân Lộc Mã nên Tứ trụ hoạt động mà lấy. Như người mệnh Giáp thấy chồng chất chữ Dần, là hiện tài lộc ở tự nhà; người mệnh Dần thấy chồng chất chữ Giáp, là tài lộc từ ngoài tới, đều là cách Tụ Lộc: Tốt. Quý nhân với Mã cũng thế.
(Xét dùng 4 Trường Sinh chủ về Dương Can, nhưng Âm Can thì Tiết khí, không bằng 4 Lâm quan là tốt).
Hợp Lộc cùng với Mệnh Quý nhân rất cát, Mã là Thứ Cát, là bệnh địa đó. Mã cũng có khi không nên dùng, như Dần lấy Thân làm Mã, Tứ Trụ như dùng chữ Thân, thì xung Dần mệnh: hung (Mã dùng chữ Tỵ Hợi cũng thế).
Tra người xưa khoa Tạo Táng có nói: Lộc Mã Quý Nhân đều trong Tứ Trụ hiễn nhiên có thể thấy, như mấy Khóa nói trên đây, nhưng khó gặp gỡ, vì khó thành cách cục vậy. Lại có Bản mệnh Phi Lộc, Phi Mã , Phi Quý Nhân, lấy vào năm Tạo Táng, phi đến Sơn, Hướng, Trung Cung đều Đại Cát, cách nầy còn hơi dễ lấy.
Bản mệnh Địa Chi, rất kỵ Tứ Trụ Địa Chi khoá xung, nếu lại Thiên can khắc mệnh, gọi là “Thiên khắc Địa xung ”: rất hung. Lại kỵ Tạo Táng ngày nạp âm khắc nạp âm Chủ mệnh, Hóa mệnh với mệnh Chủ tế ( như mệnh Giáp tí, kỵ Canh ngọ là Thiên khắc Địa xung, kỵ Mậu ngọ là nạp âm khắc. Thuật sĩ đời nay không rõ lẽ nhầm lấy Tuất làm Giáp tí mệnh Thiên khắc địa xung, thật đáng chê cười).
Thái Tuế xung mệnh : rất hung, tháng : thứ hung, ngày : thứ hung, giờ là nhẹ ; như Thìn Tuất Sửu Mùi mênh gặp xung : không cát, chỉ hơi nhẹ vì Thổ xung Thổ, song Thái tuế xung : cũng hung .- Lại nói : Đông xung Tây không động, Nam xung Bắc không rời đi, nói là Mộc không thể làm hại Kim , Hỏa không thể khắc Thủy. Như mệnh Thân Dậu, gặp Dần Mão xung ; mệnh Tí Hợi gặp Ngọ Tỵ xung là thế đấy, cũng hơi nhẹ , chỉ chủ thị phi thôi. Nếu Bắc xung Nam mênh, Tây xung Đông mệnh: hung không chịu được, song cũng lấy Thái Tuế làm trọng, Nguyệt trọng vừa vì Tuế Quân sức lớn mà Nguyệt là Tư lệnh vậy.
Phàm Bản mênh Dương nhận, rất kỵ thấy nhiều trong Tứ trụ, như mệnh Giáp kỵ chữ Mão …….
Phàm Bản mệnh sát, duy Thiên cương Tứ sát: rất hung; Tạo Táng đều kỵ. Vì Thiên cương tứ sát tức là Tuế Sát; làm nhà kỵ người Trưởng gia, Táng kỵ mệnh người chết và Chủ tế. Cát không thể chế nó.
Như người sinh năm Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa, kỵ niên nguyệt nhật thời Sửu, trong làm 4 hướng Giáp Ất Canh Tân hung (không phải 4 hướng này thì cũng không kỵ; hai loại này đều phạm thì kỵ, phạm một chữ Sửu cũng kỵ. Ba cục dưới đây cũng thế ).
Người tuổi Thân Tí Thìn thuộc Thủy, kỵ niên nguyệt nhật thời Mùi, trong làm 4 hướng Giáp Ất Canh Tân hung.
Người tuổi Tị Dậu Sửu thuộc Kim, kỵ niên nguyệt nhật thời là Thìn (??), trong làm 4 hướng Bính Đinh Nhâm Quý hung
Người tuổi Hợi Mẹo Mùi thuộc Mộc, kỵ niên nguyệt nhật thời là Tuất (??), trong làm 4 hướng Bính Đinh Nhâm Quý hung (Nghĩa này còn chưa tường, đợi xét lại).

Mệnh Thực Lộc: rất Cát. Có thể thúc dục Quan Lộc , là Lộc Phương mệnh Thực Thần, Bát tự dùng 3,4 điểm đều Cát, hoặc sửa phương Thực Lộc cũng tốt . Như mệnh Giáp lấy Bính làm Thực thần , Bính Lộc ở Tị, tứ trụ của Khoá phần nhiều dùng chữ Tị là thế, hoặc tu Tị phương cũng cát .

Phàm sức của Tam Hợp lớn hơn Lục Hợp, nhưng Chủ Mệnh lại mừng ở Bát tự Lục Hợp, mà Tam Hợp là thứ. Duy dùng Tam hợp để hàng Sát, được Chủ mệnh cùng Bát tự cộng thành Tam hợp là tốt. Sơn Hướng lại mừng cùng Bát tự Tam Hợp, mà Lục Hợp coi nhẹ vậy.

Phàm Tọa Sơn với lại Lai Long cùng Mệnh Can Chi cùng suy. Nhưng 24 sơn hướng trong đó thiểu (ít) hai chữ Mậu Kỷ, mà nhiều 4 chữ Càn Khôn Cấn Tốn. Khi dùng Lộc Mã Quý nhân, thì Càn cùng với Hợi là đồng nhau, Khôn cùng với Thân đồng nhau, Cấn với Dần đồng nhau, Tốn với Tị đồng nhau. Như Tứ trụ dùng chữ Nhâm thì là Lộc tới Càn Hợi, dùng chữ Bính Đinh thì Quý tới Càn Hợi, dùng Kỷ thì Mã tới Càn Hợi. Khôn Cấn Tốn cùng suy y như vậy.
Như Càn Khôn Cấn Tốn sơn dùng Trường Sinh, Ấn thụ cách, thì Càn Kim cùng với Canh Kim đồng nhau, Khôn Thổ cùng với Mậu Thổ đồng nhau, Tốn Mộc cùng với Ất Mộc đồng nhau, Cấn Thổ cùng với Kỷ thổ đồng nhau .
Mã có Xung Sơn thì lấy tới Hướng. Như Dần sơn có Mã ở Thân, kỵ dùng chữ Thân xung Dần Sơn, thì Tứ trụ dùng nhiều chữ Dần, lại giúp dậy Dần Sơn, khiến Mã tới Hướng Thân.
Lộc Quý đến Hướng đều Cát, nên dùng phép linh hoạt mà lấy, chứ không chấp nhất .
Lại có Bản mệnh phi độn Chân Lộc Mã Quý Nhân. Lấy năm dùng Thái tuế vào Trung cung độn đến Sơn Hướng thì Tạo, Táng, An sàng, Nhập trạch đều Đại Cát.
Tu Phương nên độn đến Phương. Như người tuổi Giáp Tý thì Dần là Lộc, là Mã; Sửu Mùi là Quý nhân. Dùng phép Độn Ngũ Hổ, năm Giáp độn được Dần là Bính Dần, Sửu là Đinh Sửu, Mùi là Tân Mùi. Nếu năm Ất Sửu dùng việc, lấy Thái Tuế Ất Sửu nhập vào Trung Cung, phi thuận 9 cung, thì Bính Dần tới Càn Lộc (??), đó là Càn được Chân Lộc Chân Mã; đếm tiếp sẽ được Tân Mùi ở Khôn, đó là Khôn được Dương Quý Nhân, tới nữa được Đinh Sửu ở Cấn, đó là Cấn được Âm Quý Nhân; như vậy thì tới Càn, Khôn, Cấn ba phương tu tác thì Cát (một quẻ 3 do Xét Bí khiếu: phàm phi Lộc, Mã, Quý nhân đến cung, như ở cung Càn thì phía trước là Mậu, phía sau là Sơ tuần Hợi; dùng việc đắc lực thì trung tuần Càn đắc lực, Mạt tuần Hợi đắc lực, như thế chua khỏi là câu nệ, chép ra để tham khảo).//

Tác giả bài viết: Thầy Bùi Quang Uy

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 
2011 Phong Thủy Phương Đông