Thực hư Cao Biền trấn yểm thành Đại La -P3

BÀI 3 :
Thành nhà Hồ được xây vào cuối thế kỷ 14 còn gọi là động An Tôn tọa lạc ở làng Tây Giai, huyện Cẩm Thủy (Thanh Hóa) trên cuộc đất có thế phong thủy “còn non” mà các nhà nghiên cứu địa lý xem tựa như “con rồng đang cuộn mình nhưng chưa đủ sức bay
Nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật năm nay đã hơn 80 tuổi, có ngót nửa thế kỷ tìm hiểu và khai quật khảo cổ học, đã dày công nghiên cứu về thành nhà Hồ và phong thủy của thành này trong hơn 40 năm qua. Dưới đây là nội dung của buổi tiếp cận và hỏi chuyện cụ Đỗ Đình Truật về cuộc đất thành Hồ nói trên.
– Thưa ông, thành nhà Hồ ra đời trong bối cảnh lịch sử như thế nào?
Thành nhà Hồ có diện tích 10.000m2, xây bằng đá “cự thạch” nghĩa là loại “đá lớn” nặng từ nửa tấn đến 4 – 5 tấn. Thành có 4 cổng: Đông, Tây, Nam, Bắc và đều có lầu để quan sát. Đại môn thành là cửa mở vào chính Đông Nam. Cửa thành gồm có 3 hình cong, rộng 12m, cao hơn 3m. Ở trên có lầu, có hỏa hồi, có cờ hiệu, có các viên quan túc trực thành. Ngôi thành xây bằng đá lớn như vậy là một di sản văn hóa thành lũy cổ hiếm có của Việt Nam và cả Đông Nam Á nữa.
Về hoàn cảnh ra đời của thành nhà Hồ, còn gọi thành Tây Giai, trước hết ai cũng biết chủ nhân của ngôi cổ thành nầy là vua Hồ Quý Ly. Ông là phò mã của nhà Trần, đã được Trần Nghệ Tông giao việc nhiếp chính, vì lúc này nhà vua đã già, trong nước suy yếu, bên ngoài giặc Minh dòm ngó toan xâm lược Việt Nam.
Lúc ấy, sứ giả nhà Minh liên tục đến Thăng Long yêu sách hết việc này đến việc khác, như thúc ép vua tôi nhà Trần phải cung cấp lương thực, dân phu, gái đẹp, kể cả phải cung cấp thầy chùa, sư sãi, đến sừng tê, ngà voi, chim trĩ và bao nhiêu cũng không vừa lòng chúng. Đứng trước tình thế đó Hồ Quý Ly biết rằng đường nào cũng phải đánh giặc Minh, nên quyết định canh tân đất nước, mà việc đầu tiên là phải xây dựng thành Tây Giai tại động An Tôn để thủ hiểm.
Vì vùng này nhiều núi non hang động cách xa Thăng Long hơn một ngày đi ngựa, nằm sau lưng dãy núi Hòa Bình, đường đi lại hiểm trở. Thành xây trong vòng 3 năm thì hoàn thành (1397 – 1400) do Hồ Hán Thương phụ trách và Đỗ Tĩnh làm kiến trúc sư kiêm việc định hướng địa lý và chọn thế phong thủy để thực hiện.
– Vậy quan điểm phong thủy của Đỗ Tĩnh như thế nào về cuộc đất của thành nhà Hồ?
Quan điểm của Đỗ Tĩnh có khác với Hồ Hán Thương – con ruột của Hồ Quý Ly. Đỗ Tĩnh là người trực tiếp trông coi công việc xây thành có hỏi Hồ Hán Thương rằng: “Cuộc đất ở động An Tôn còn non, tôi xem xây thành thì sự nghiệp không được bền vững, có thể tìm nơi khác không?”. Hồ Hán Thương đáp: “Tôi cũng biết điều đó, nhưng việc quá gấp vì nếu ta chậm trễ mà giặc Minh kéo đến sớm, ta biết chạy ẩn núp ở đâu? Hiện nay tiềm lực ta chưa đủ mạnh để bảo đảm phòng vệ được Thăng Long khỏi cuộc tấn công của giặc”.
Nghe vậy Đỗ Tĩnh ngậm ngùi than: “Rồng ở vực sâu khó bay cao?/ Sông phù, núi khuyết biết làm sao?/ Sông cứ hướng đông mà chảy mãi / Núi ngoảnh về sau tỏ phụ phàng / Không duyên khó gặp Thiên địa hội / Trời đã biểu vậy, biết làm sao”. Tạm dịch và dẫn giải: “Sông cứ hướng đông mà chảy mãi, nghĩa là dòng sông Mã mà hợp lưu với sông Chu, nếu gặp nhau sớm ở đoạn trên huyện Cẩm Thủy chứ không chảy mãi một mình về hướng Đông thì tốt quá không việc gì phải bàn. Đằng này sự hợp giang đó muộn quá (còn non) cho nên cơ hội tốt mất đi – đó là cái nghĩa sông phù (âm phù) theo thuyết phong thủy”.
Còn “Núi khuyết” nghĩa là: núi ở động An Tôn không tách ra về phía bên kia sông ở bên huyện Thiệu Dương như núi tròn núi trĩnh, thì núi bên phía đông An Tôn không khuyết – nghĩa là được dương trợ. Hai nghĩa này trong học thuyết phong thủy coi một cuộc đất nào có âm phù dương trợ là đất đắc địa.
Vậy nên sông cứ hướng Đông mà chảy mãi, núi cứ hướng Nam mà ngoảnh nhìn… có nghĩa là cả sông lẫn núi mạch khí trái ngược nhau, do đó sinh ra cái họa sau này mà Đỗ Tĩnh ám chỉ là quẻ “Thiên địa bỉ”.
– Quẻ Thiên địa bỉ liên quan gì đến cuộc đất xây thành của Hồ Quý Ly?
Quẻ Thiên địa bỉ nghĩa là 3 gạch dương ở trên ≡ là quẻ càn với 3 gạch âm ở dưới là quẻ khôn ≡ ≡ vậy ta đem để quẻ càn ở trên, quẻ khôn ở dưới là:
≡ càn trên
≡ ≡ khôn dưới
Thành ra quẻ Thiên địa bỉ, nghĩa của quẻ là khí trời cứ đi lên, khí đất cứ đi xuống, hai khí âm và dương không gặp nhau, nên là bỉ là xấu, không có gì phát triển được của vạn vật. Vì thế, ám chỉ cuộc đất xây thành không có duyên hội ngộ của trời đất là vậy! Một điểm khác về địa mộc, là ngôi thành nhà Hồ tọa lạc trên địa vực cả hai dòng sông: sông Chu và sông Mã.
Nhưng cửa Đồ Sơn mở ra biển thì lại quá hẹp, quá cạn, không đáp ứng cho địa cuộc thông thoáng và sinh khí quanh thành! Điểm này Quách Phát đã nói “Người to mà cuống họng nhỏ thì làm sao nói là một cơ thể tốt được”.
Điểm qua bấy nhiêu ta thấy rõ ràng là phong thủy ở thành Tây Giai “còn non” và nhiều mạch khí phát triển không tốt. “Đất có mà khí ít” chính là vùng nầy, muốn xây dựng cơ đồ, xây thành lớn phải chờ một thời gian lâu nữa (già) mới phát triển, như Hoàng Phúc tướng nhà Minh đã nói: “Có thể vùng đất miền trong (ám chỉ miền trung nước ta hiện nay) qua thiên niên kỷ III thì phát triển mà Bắc triều ta (Trung Quốc) khó khống chế”.
– Hoàng Phúc là người cũng từng mưu trấn yểm các cuộc đất tốt của nước ta vào thế kỷ 15?
Đúng vậy, Hoàng Phúc là tướng nhà Minh sau khi xâm lược nước ta đã quyết tâm đi yểm trừ khí sông núi khắp nơi trong đó có vùng Thanh Hóa. Đặt chân đến khu vực thành Hồ, Hoàng Phúc bảo rằng ở ven biển của vùng nầy có nhiều huyệt đạo tốt, ý Phúc muốn chỉ vùng đất từ Nga Sơn đến Vinh cần phải yểm nốt.
Nhưng không may cho Phúc chưa làm được mưu thâm độc đó thì bị Lê Lợi bắt sống, phải chịu phục mạng và xếp khăn gói về nước. Trở lại chuyện phong thủy thành nhà Hồ, ở đây ta lại gặp cụm từ “vì đất còn non, nên thành Tây Giai chỉ tồn tại có 7 năm” sao lại trùng hợp với thuyết về cuộc đất “con sư tử còn ngủ ở sông Côn” (Bình Định) nơi anh em nhà Nguyễn Nhạc khởi binh…
Ngôi thành nhà Hồ tọa lạc trên địa vực cả hai dòng sông: sông Chu và sông Mã. Nhưng cửa Đồ Sơn mở ra biển thì lại quá hẹp, quá cạn. “Người to mà cuống họng nhỏ thì làm sao nói là một cơ thể tốt được”.
( St )